Nhận giá mới nhất? Chúng tôi sẽ trả lời sớm nhất có thể (trong vòng 12 giờ)

Ngành chăn nuôi gà thịt hôm qua, hôm nay và ngày mai

Thịt gà là sản phẩm sản xuất và tiêu thụ thịt lớn nhất thế giới, khoảng 70% sản lượng thịt gà trên thế giới đến từ gà thịt lông trắng. Thịt gà là sản phẩm thịt lớn thứ hai của nước tôi và thịt gà của nước tôi chủ yếu có nguồn gốc từ gà thịt lông trắng và gà thịt lông vàng. Gà thịt lông trắng đóng góp khoảng 45% vào sản lượng gà của nước tôi, gà thịt lông vàng đóng góp khoảng 38%.

 

Hình 1 Cơ cấu thịt thế giới (%, FAO)


Hình 2 Cơ cấu thịt của Trung Quốc (%, FAO)


Gà thịt lông trắng là giống có tỷ lệ thức ăn trên thịt thấp nhất, mức độ chăn nuôi quy mô cao nhất và mức độ phụ thuộc bên ngoài cao nhất trong số tất cả các giống gia súc, gia cầm ở nước tôi. Tất cả giống gà thịt lông vàng được sử dụng trong chăn nuôi ở nước tôi đều là giống tự phối, có số lượng giống lớn nhất trong số tất cả các giống gia súc, gia cầm và là điển hình thành công trong việc biến lợi thế nguồn giống địa phương thành lợi thế sản phẩm.


1. Bối cảnh lịch sử phát triển giống gà


Gà nhà được thuần hóa từ gà lôi rừng châu Á cách đây 7.000-10.000 năm và lịch sử thuần hóa của nó có thể bắt nguồn từ hơn 1.000 năm trước Công nguyên. Gà nhà giống gà rừng về hình dáng, màu lông và tiếng gọi. Các nghiên cứu di truyền tế bào và hình thái học đã chứng minh rằng gà rừng là tổ tiên trực tiếp của gà nhà hiện đại. Chi Gallus được chia thành bốn loài, đó là gà rừng đỏ (Gallus gallus, Hình 3), gà rừng cổ xanh (Gallus khác nhau), gà rừng đuôi đen (Gallus lafayetii) và gà rừng sọc xám (Gallus sonnerati) . Có hai quan điểm khác nhau về nguồn gốc của gà nhà từ gà rừng: lý thuyết nguồn gốc duy nhất tin rằng gà rừng đỏ có thể đã được thuần hóa một hoặc nhiều lần; Thuyết đa nguồn gốc cho rằng ngoài gà rừng đỏ, các loài gà rừng khác cũng là tổ tiên của gà nhà. Hiện nay, hầu hết các nghiên cứu đều ủng hộ giả thuyết nguồn gốc duy nhất, tức là gà nhà chủ yếu có nguồn gốc từ gà rừng đỏ.

Hình 3 Red Junglefowl (Dorian Anderson, ngày 05 tháng 1 năm 2020, Phetchaburi, Thái Lan. Danh sách kiểm tra eBird S63030704. Thư viện Macaulay ML212770971)


  (I) Lịch sử chăn nuôi gà thịt ở nước ngoài


Trước những năm 1930, việc chọn lọc nhóm và lai tạo dòng thuần không có hồ sơ phả hệ đã được thực hiện. Đặc điểm chọn lọc chính là năng suất đẻ trứng và gà là sản phẩm phụ. Khi đó, chăn nuôi gà thuộc mô hình kinh tế sân vườn quy mô nhỏ. Với việc phát minh ra hộp đẻ trứng kín vào những năm 1930, hiệu suất đẻ trứng bắt đầu được lựa chọn theo hồ sơ đẻ trứng của từng cá thể; Từ những năm 1930 đến những năm 1950, lợi thế lai đã được đưa vào chăn nuôi gà nhờ áp dụng công nghệ lai kép ngô, nhanh chóng thay thế chăn nuôi thuần dòng và trở thành xu hướng chủ đạo trong chăn nuôi gà thương phẩm. Phương pháp kết hợp lai đã dần phát triển từ phương pháp kết hợp nhị phân sớm nhất đến kết hợp kết hợp ba chiều và bốn chiều. Sau khi sử dụng hồ sơ phả hệ vào những năm 1940, hiệu quả chọn lọc các tính trạng hạn chế và tính di truyền thấp đã được cải thiện và có thể tránh được tình trạng trầm cảm cận huyết do họ hàng gần gây ra. Sau năm 1945, một số tổ chức hoặc trạm thử nghiệm của bên thứ ba ở Châu Âu và Hoa Kỳ đã tiến hành các thử nghiệm mẫu ngẫu nhiên về hiệu suất chăn nuôi gà, nhằm mục đích đánh giá khách quan các giống tham gia trong cùng điều kiện môi trường, đóng vai trò tích cực trong việc tăng hiệu quả chăn nuôi. thị phần của các giống có hiệu suất thử nghiệm xuất sắc. Loại công việc đo lường hiệu suất này đã bị chấm dứt sau những năm 1970. Từ những năm 1960 đến những năm 1980, các đặc điểm chính dễ đo lường đã được lựa chọn, chẳng hạn như sản lượng trứng, tỷ lệ nở, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn, và các sản phẩm chủ yếu là gà rút xương và tiêu dùng trong gia đình. Phép đo tỷ lệ chuyển đổi thức ăn trong lồng đơn bắt đầu từ những năm 1980, đóng vai trò trực tiếp trong việc giảm tiêu thụ thức ăn cho gà thịt và cải thiện việc sử dụng thức ăn. Kể từ những năm 1990, các đặc điểm chế biến đã nhận được sự chú ý, chẳng hạn như trọng lượng bỏ nội tạng và trọng lượng ức không xương. Việc áp dụng các phương pháp đánh giá di truyền như phương pháp dự đoán không thiên vị tuyến tính tốt nhất (BLUP) và sự tiến bộ của công nghệ máy tính đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển nhân giống. Sau khi bước vào thế kỷ 21, chăn nuôi gà thịt bắt đầu quan tâm đến chất lượng sản phẩm và phúc lợi động vật. Hiện nay, công nghệ nhân giống gà thịt phân tử bằng chọn lọc gen (GS) trong và ngoài nước đang chuyển từ nghiên cứu phát triển sang ứng dụng.


  (II) Lịch sử chăn nuôi gà thịt ở nước ta


Vào giữa thế kỷ 19, gà địa phương ở nước tôi đứng đầu thế giới về năng suất đẻ trứng và lấy thịt. Ví dụ, Vương quốc Anh đã giới thiệu gà Langshan và gà vàng Jiujin từ Giang Tô và Thượng Hải vào nước tôi, sau đó giới thiệu chúng từ Vương quốc Anh sang Hoa Kỳ. Sau khi nhân giống, chúng được công nhận là giống tiêu chuẩn ở cả hai nước. Gà Langshan được công nhận là giống lưỡng dụng, gà vàng Jiujin được công nhận là giống cho thịt. Những giống này đã có tác động quan trọng đến việc hình thành một số giống gia súc, gia cầm nổi tiếng thế giới. Ví dụ, gà Orpington của Anh và gà đen Úc ở Úc đã du nhập dòng gà Langshan vào nước tôi, còn gà Rock, gà Rock Island Red và các giống khác cũng sử dụng gà vàng Jiujin ở nước tôi làm vật liệu nhân giống. Từ cuối thế kỷ 19 đến những năm 1930, trứng và thịt gà ở nước tôi là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Tuy nhiên, một thời gian dài sau đó, ngành chăn nuôi gia cầm nước ta vẫn ở trình độ chăn nuôi quảng canh, trình độ sản xuất gà ngày càng chênh lệch với trình độ tiên tiến của thế giới. Vào giữa những năm 1960, Hồng Kông đã chọn gà Huiyang, gà Qingyuan Ma và gà Shiqi từ ba giống địa phương ở Quảng Đông làm đối tượng cải tiến chính và liên tục giới thiệu các giống Hanxia, ​​White Rock, White Cornish và Hubbard mới để lai tạo và nhân giống. gà lai Shiqi, loại gà đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và tiêu thụ gà thịt ở Hồng Kông. Trong những năm 1970 và 1980, gà lai Shiqi đã được du nhập đến Quảng Đông, Quảng Tây và những nơi khác, đồng thời lai với gà trắng lặn để tạo thành gà lai Shiqi cải tiến và quảng bá với số lượng lớn trong sản xuất. Từ những năm 1960 đến những năm 1980, nước ta đã áp dụng phương pháp lai tạo và chọn lọc gia đình để nhân giống các giống gà thịt như gà Langshan mới, gà Pudong mới và gà Dương Châu mới. Từ năm 1983 đến năm 2015, gà thịt lông vàng áp dụng mô hình chăn nuôi miền Bắc và chăn nuôi miền Nam, tận dụng sự khác biệt về khí hậu, môi trường sinh thái, thức ăn, nhân lực và công nghệ chăn nuôi giữa miền Bắc và miền Nam. Gà giống thế hệ bố mẹ được nuôi ở các khu vực phía bắc như Hà Nam, Sơn Tây và Thiểm Tây, còn trứng giống thế hệ thương mại được vận chuyển về phía nam để ấp và nhân giống, giúp cải thiện hiệu quả sản xuất gà thịt lông vàng. Việc nhân giống có hệ thống gà thịt lông vàng bắt đầu vào cuối những năm 1980. Việc đưa vào các gen lặn có lợi như gen lùn tiết kiệm hạt (gen dw) và gen lặn lông trắng đóng vai trò quan trọng trong chăn nuôi gà thịt lông vàng ở nước tôi. Khoảng 1/3 số giống gà thịt lông vàng trong nước đã áp dụng các công nghệ này. Năm 1986, Công ty Phát triển Gia cầm Bạch Vân Quảng Châu đã giới thiệu giống trắng lặn và các giống khác và lai chúng với gà lai Shiqi để nhân giống 882 con gà thịt lông vàng. Năm 1999, Công ty TNHH Kangdal (Tập đoàn) Thâm Quyến đã nhân giống gà vàng Kangdal 128, hệ thống so sánh gà thịt lông vàng đầu tiên được nhà nước phê duyệt (Hình 4). Sau đó, việc chăn nuôi giống gà thịt lông vàng mới ở nước tôi bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng. Để hợp tác trong công việc phê duyệt giống, Trung tâm Giám sát, Kiểm tra và Kiểm tra Chất lượng Gia cầm (Dương Châu) của Bộ Nông nghiệp và Nông thôn và Trung tâm Giám sát, Kiểm tra và Kiểm tra Chất lượng Gia cầm (Bắc Kinh) của Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Các bộ phận được thành lập lần lượt vào năm 1998 và 2003, chịu trách nhiệm về công tác đo lường hiệu suất chăn nuôi gia cầm quốc gia.


 


  Hình 4 Hệ thống hỗ trợ gà vàng Kangdal 128 (Giấy chứng nhận giống mới Nong09 số 1, 1999)


Vào giữa những năm 1980, Công ty Chăn nuôi Gia cầm Bắc Kinh, một liên doanh giữa Trung Quốc, Hoa Kỳ và Thái Lan, đã giới thiệu dòng Gia cầm thuần chủng từ Hoa Kỳ, bắt đầu nhân giống gà thịt lông trắng tại địa phương ở nước tôi. Đến năm 2001, gà thịt gia cầm nội địa chiếm hơn 54% thị trường nội địa. Sau đó, do các vấn đề như phòng chống dịch bệnh, chăn nuôi địa phương rơi vào tình trạng khó khăn vào năm 2004. Năm 1988, được Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phê duyệt, Trung tâm Chăn nuôi Gia cầm Quốc gia của Bộ Nông nghiệp được thành lập tại Wuqing, Thiên Tân, với kế hoạch độc lập nuôi các giống gà thịt lông trắng bằng cách đưa vào các dòng thuần hoặc dòng tổng hợp của nước ngoài. Trung tâm có diện tích 2.000 mẫu Anh và có 44 chuồng gà, bao gồm các trang trại chăn nuôi, trang trại chăn nuôi và trang trại ông bà cố. Quy mô thiết kế là nuôi 88.600 con giống và cung cấp 4,28 triệu trứng ông bà hàng năm. Tuy nhiên, trung tâm đã không hoạt động bình thường và được chuyển đổi sau tháng 7 năm 2008. Năm 2009, Hệ thống Công nghệ Công nghiệp Gà thịt Quốc gia đã thành lập nhóm cộng tác chăn nuôi gà thịt lông trắng để tiến hành nghiên cứu chiến lược về chăn nuôi gà thịt lông trắng ở nước tôi và tổ chức và thúc đẩy các doanh nghiệp ở nước ta có năng lực chăn nuôi gà thịt lông trắng. Năm 2014, Kế hoạch cải thiện di truyền gà thịt quốc gia (2014-2025) đã được ban hành và triển khai, trong đó nêu rõ việc chăn nuôi gà thịt lông trắng trong các mục tiêu phát triển đã thúc đẩy chăn nuôi gà thịt lông trắng ở nước ta. Năm 2019, Bộ Nông nghiệp và Nông thôn thực hiện dự án nghiên cứu chung về chăn nuôi gà thịt lông trắng và bắt đầu đẩy mạnh chăn nuôi gà thịt lông trắng.


  II. Phát triển chăn nuôi gà thịt hiện đại trong và ngoài nước


(I) Phát triển ở nước ngoài


Tiến bộ nhân giống di truyền từ cuối những năm 1950 đã đặt nền móng cho chăn nuôi gà hiện đại, thúc đẩy phát triển chăn nuôi trứng và gà theo hướng chuyên môn hóa, chăn nuôi gà thịt đã trở thành một ngành chăn nuôi gia cầm độc lập. Trong hơn 80 năm qua, các nước Bắc Mỹ và Tây Âu đã tiến hành nhân giống di truyền có hệ thống về tốc độ tăng trưởng, chuyển đổi thức ăn và thành phần thân thịt của gà, hình thành nên giống gà thịt lông trắng ngày nay và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường toàn cầu. Dòng gà thịt cha lông trắng hiện đại có nguồn gốc từ White Cornish và dòng mẹ có nguồn gốc từ White Plymouth Rock, dòng này tạo ra lợi thế lai thông qua việc kết hợp hệ thống. Hiện nay, trong đó có nước tôi, các giống được sử dụng trong sản xuất gà thịt lông trắng thương mại trên thế giới chủ yếu bao gồm một số giống như AA+, ROSS, COBB, HUBBARD, v.v., lần lượt có nguồn gốc từ Aviagen và Cobb-Vantress. Gà thịt lông trắng có hệ thống chăn nuôi trưởng thành và hoàn thiện, tạo thành cấu trúc kim tự tháp gồm các nhóm nòng cốt chăn nuôi, ông bà, ông bà, bố mẹ và gà thương phẩm. Tiến trình di truyền của nhóm nòng cốt cần 4-5 năm mới truyền được cho gà thương phẩm (Hình 5). Sau khi mở rộng, một nhóm gà mái cốt lõi có thể sản xuất hơn 3 triệu gà thịt thương mại và hơn 5.000 tấn thịt gà. Hiện nay, thế giới sản xuất khoảng 11,6 triệu bộ gà giống ông bà lông trắng, khoảng 600 triệu bộ giống bố mẹ và khoảng 80 tỷ gà con thương phẩm mỗi năm.

Hình 5 Hệ thống chăn nuôi gà thịt


Để đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng gà và phúc lợi động vật, một số nước châu Âu cũng đã tung ra một số lượng nhỏ sản phẩm gà thịt sinh trưởng chậm, có lông màu tương tự gà thịt lông vàng của nước ta. Hubbard JA, Rowan Ranger, Sasso Label Rouge, v.v. hiện thuộc sở hữu của Aviagen đều là những giống gà sinh trưởng chậm. Ngoài ra, các nước châu Âu còn sản xuất nhiều loại gà thịt sinh trưởng chậm thông qua việc lai đơn giản giữa gà sinh trưởng nhanh và gà sinh trưởng chậm. Gà Label Rouge được lai tạo để lấy chất lượng thịt và sản lượng của chúng chiếm khoảng 15% tổng sản lượng gà ở Pháp. Cùng với các loại gà sinh sản chậm khác, gà sinh sản chậm chiếm 24% tổng sản lượng gà ở Pháp. Gà sinh sản chậm của Hà Lan đang phát triển nhanh chóng, chủ yếu xem xét chất lượng thịt và phúc lợi động vật, và sản lượng của chúng đã đạt hơn 40% tổng sản lượng gà.


  (II) Phát triển trong nước


1. Gà thịt lông vàng


Gà thịt lông vàng hay còn gọi là gà ba vàng, gà chất lượng cao, ban đầu dùng để chỉ những loại gà có lông vàng, da vàng, chân vàng, tốc độ sinh trưởng chậm và hương vị thịt tuyệt vời. Bây giờ nó thường đề cập đến các giống gà địa phương được liệt kê trong "Tài nguyên di truyền gia súc và gia cầm Trung Quốc · Gia cầm" và "Giống gia súc và gia cầm" của các tỉnh, thành phố và khu tự trị khác nhau, cũng như các dòng và giống gà thịt (phù hợp dòng) chứa máu của các giống gà địa phương này, bao gồm cả gà thịt lông vàng, lông gai, lông đen, v.v. Hiện tại, tất cả các giống gà thịt lông vàng được sử dụng trong Sản lượng của cả nước là các giống tự nhân và số lượng giống gà thịt là lớn nhất trong số các giống gia súc, gia cầm. Đây là một ví dụ thành công trong việc chuyển hóa lợi thế nguồn giống địa phương thành lợi thế sản phẩm. Đến năm 2020, 59 giống gà thịt lông vàng sẽ được nhà nước phê duyệt, có thể chia thành 3 loại theo tốc độ tăng trưởng và tuổi thị trường: tăng trưởng nhanh, tăng trưởng trung bình và tăng trưởng chậm, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Những năm gần đây, với yêu cầu phòng chống dịch bệnh ngày càng khắt khe, nhiều nơi đã xây dựng chính sách “cấm sống”. Ngoài ra, mô hình kinh doanh mới “Internet + chuyển phát nhanh” đã thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm giết mổ. Trong tương lai, việc giết mổ và đưa vào danh mục gà thịt lông vàng sẽ trở thành xu hướng chung, việc chăn nuôi giống tương ứng cũng sẽ phát triển theo hướng giết mổ. Sau khi được Bộ Nông nghiệp và Nông thôn lựa chọn và xác minh, cả nước sẽ có 17 trang trại chăn nuôi gà thịt trọng điểm quốc gia và 16 cơ sở mở rộng và quảng bá các giống cải tiến trong nước vào năm 2020.


2. Gà thịt lông trắng


Trước khi dịch cúm gia cầm bùng phát ở Hoa Kỳ vào năm 2014, hơn 95% lượng nhập khẩu gà thịt ông bà lông trắng của nước tôi đến từ Hoa Kỳ. Kể từ đó, với sự phát triển của dịch cúm gia cầm trên toàn thế giới và sự điều chỉnh chính sách nhập khẩu hải quan của nước tôi, nước tôi đã liên tục giới thiệu các giống gà thịt ông bà lông trắng từ Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ba Lan, New Zealand và các nước khác. . đất nước tôi nhập khẩu 800.000 đến 1,2 triệu bộ giống ông bà hàng năm, với số tiền giới thiệu hàng năm khoảng 40 triệu USD. Năm 2019, toàn quốc có 1,39 triệu bộ gà thịt ông bà lông trắng, 51,43 triệu bộ bố mẹ, 4,7 tỷ gà con thương mại được sản xuất và giá trị sản lượng của gà thịt lông trắng là khoảng 150 tỷ nhân dân tệ mỗi năm. Các công ty chăn nuôi gà thịt lông trắng lớn ở nước tôi bao gồm Công ty TNHH Chăn nuôi Gia cầm và Gia cầm Yisheng Sơn Đông, Công ty TNHH Phát triển Phúc Kiến Shengnong, Công ty TNHH Chăn nuôi Minhe Sơn Đông, v.v.


3. Gà thịt lông trắng nhỏ


Có một loại giống khác trong chăn nuôi gà thịt ở nước tôi - gà thịt nhỏ lông trắng. Gà thịt nhỏ lông trắng điển hình là gà thịt được tạo ra bằng cách lai với gà trống bố mẹ lông trắng làm bố và gà mái đẻ vỏ nâu năng suất cao làm mẹ. Thế hệ thương mại có lông trắng khắp cơ thể, đôi khi có đốm đen hoặc đỏ, mỏ, cẳng chân, ngón chân và da màu trắng. Giá thành gà thịt thương phẩm cỡ nhỏ lông trắng thấp, tốc độ tăng trưởng và chất lượng thịt nằm giữa gà thịt cỡ lớn lông vàng phát triển nhanh và gà thịt lông trắng, thích hợp để chế biến các sản phẩm gà truyền thống như gà om. Một vấn đề nổi cộm trong chăn nuôi gà thịt nhỏ lông trắng là sản xuất con giống không đạt tiêu chuẩn. Năm 2018, hệ thống bổ sung gà thịt WOD168 đã được Ủy ban Quốc gia về Tài nguyên Di truyền Động vật phê duyệt, đánh dấu bước đầu tiên hướng tới tiêu chuẩn hóa sản xuất giống gà thịt cỡ nhỏ lông trắng.


  3. Vấn đề và khoảng trống


(I) Chăn nuôi gà thịt lông trắng


So với trình độ chăn nuôi gà thịt lông trắng quốc tế tiên tiến, thời gian chăn nuôi gà thịt lông trắng độc lập ở nước tôi còn ngắn, việc tích lũy vật liệu di truyền hiệu suất cao còn yếu, việc áp dụng các công nghệ mới như nhân giống phân tử còn thiếu, và còn đó là một lỗ hổng lớn trong nghiên cứu và phát triển công nghệ thanh lọc và phát hiện bệnh truyền qua hạt giống. Chi tiết như sau:


1. Vật liệu chăn nuôi. Các công ty đa quốc gia có một loạt các giống xuất sắc với tốc độ tăng trưởng nhanh và sản lượng thịt cao, đồng thời thông qua việc sáp nhập và tổ chức lại các công ty chăn nuôi gà thịt và gà mái đẻ, vật liệu và gen được làm phong phú hơn nữa, đảm bảo cho việc nhân giống các giống mới; Nguồn nguyên liệu chăn nuôi gà thịt lông trắng của nước tôi có nền tảng canh tác yếu, số lượng vật liệu chăn nuôi xuất sắc còn ít.


2. Công nghệ chăn nuôi. So với các công ty đa quốc gia quốc tế có kinh nghiệm chăn nuôi hàng trăm năm, việc chăn nuôi gà thịt lông trắng ở nước tôi bắt đầu muộn, việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chăn nuôi cân bằng giữa các tính trạng sinh trưởng và sinh sản còn kém xa trình độ tiên tiến quốc tế. Việc ứng dụng các công nghệ mới như nhân giống gen chưa cao; thiếu công nghệ đo lường chính xác thông minh kiểu hình thông lượng cao và ứng dụng thu thập và truyền dữ liệu tự động còn thấp.


3. Công nghệ làm sạch bệnh trên hạt giống. Các công ty chăn nuôi gia cầm quy mô lớn quốc tế đã thực hiện các biện pháp thanh lọc hiệu quả đối với việc lây truyền dọc các bệnh về hạt giống như bệnh bạch cầu và bệnh pullorum ở gia cầm, giúp cải thiện đáng kể khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Việc thanh lọc bệnh bạch cầu và bệnh pullorum ở gia cầm là một thiếu sót cản trở sự phát triển của ngành chăn nuôi gia cầm ở nước tôi và các bộ dụng cụ phát hiện phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu.


(II) Chăn nuôi gà thịt lông vàng


Chăn nuôi và sản xuất gà thịt lông vàng của nước tôi đang ở trình độ hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, còn nhiều cơ sở chăn nuôi có quy mô không đồng đều, sức mạnh kỹ thuật tổng thể còn yếu, chưa ứng dụng công nghệ chăn nuôi tiên tiến, cơ sở vật chất, trang thiết bị chăn nuôi còn tương đối lạc hậu; có hiện tượng nhân giống lặp đi lặp lại ở một mức độ nhất định và có rất ít giống cốt lõi có đặc điểm rõ ràng, hiệu suất vượt trội và thị phần lớn; Từ lâu, mục tiêu chăn nuôi là thích ứng với việc buôn bán gia cầm sống, chẳng hạn như màu lông, hình dáng và hình dáng cơ thể, đều liên quan đến chăn nuôi. Không thể đáp ứng nhu cầu thị trường về sản phẩm giết mổ tập trung và thị trường tươi sống trong tình hình mới.


Đất nước tôi giàu nguồn giống gà địa phương, nhiều đặc tính di truyền ưu việt đã được hình thành trong điều kiện sinh thái, kinh tế xã hội phức tạp và lâu dài. Tuy nhiên, từ lâu, còn thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm nguồn gen, điều tra nguồn giống và đánh giá đặc điểm giống chưa đầy đủ, thiếu thông tin hỗ trợ cho việc phân tích, đánh giá. Ngoài ra, việc xây dựng hệ thống giám sát động các nguồn giống còn chưa đầy đủ, việc đánh giá các đặc tính của nguồn gen có khả năng thích ứng mạnh, năng suất, chất lượng cao chưa toàn diện và có hệ thống, dẫn đến thiếu nghiêm trọng việc thăm dò, sử dụng nguồn gen. các đặc tính ưu việt của giống địa phương, cản trở việc bảo vệ, phát triển và sử dụng nguồn gen địa phương, đồng thời ảnh hưởng đến trình độ sản xuất của ngành chăn nuôi gia cầm Trung Quốc, khả năng cạnh tranh thị trường của các sản phẩm gia cầm và sự phát triển bền vững của ngành chăn nuôi gia cầm.

  IV. Phương hướng phát triển của Kế hoạch 5 năm lần thứ 14


(i) Đẩy mạnh chăn nuôi nguồn giống gà thịt lông trắng nội địa


Cần tuân thủ nguyên tắc kết hợp nhập nội, nhân giống với tự lực. Duy trì nhập khẩu phù hợp và kết hợp giới thiệu và chăn nuôi sẽ có lợi cho sự phát triển lành mạnh của ngành chăn nuôi gà thịt lông trắng ở nước ta. Tuy nhiên, về mặt tiếp cận giống, giống trong và ngoài nước cần được đối xử bình đẳng.


(ii) Nâng cao chất lượng thân thịt và trình độ chăn nuôi quy mô tiêu chuẩn của gà thịt lông vàng


Với việc đẩy mạnh sâu rộng chính sách “cấm sống” trên khắp cả nước, việc giết mổ và đưa vào danh sách gà thịt lông vàng đã trở thành xu hướng phát triển không thể đảo ngược. Chăn nuôi gà thịt lông vàng cần chú ý nhiều hơn đến hình thức bên ngoài và chất lượng thân thịt. So với gà thịt lông trắng, gà thịt lông vàng nhấn mạnh quá mức vào đặc điểm nhu cầu của khu vực và có những vấn đề nổi bật như nhiều giống và chủng loại, thị phần thấp và quy mô doanh nghiệp nhỏ. Chúng ta nên tiếp tục thúc đẩy nhân giống quy mô tiêu chuẩn hóa, tăng thị phần của các giống cốt lõi và làm cho các công ty hạt giống ngày càng lớn mạnh hơn.


(III) Tăng cường nghiên cứu phát triển và ứng dụng các công nghệ nhân giống chính xác như nhóm thông minh và nhóm kiểu hình


Hiện nay, việc xác định tính trạng gà thịt ở nước tôi vẫn chủ yếu dựa vào quan sát và đo lường thủ công. Do yêu cầu chính xác về khối lượng dữ liệu kiểu hình và độ chính xác đối với chăn nuôi gà thịt, cần thúc đẩy mạnh mẽ việc phát triển và ứng dụng công nghệ và thiết bị xác định không phá hủy thông minh trong các trang trại chăn nuôi gà thịt trong điều kiện cải thiện đáng kể đường truyền 5G và khả năng phân tích dữ liệu lớn và cải thiện khả năng thu thập chính xác dữ liệu lớn về kiểu hình như sản xuất thịt, giảm lipid, chuyển đổi thức ăn và hiệu suất sản xuất trứng; dựa trên các phương pháp đa omics như bộ gen, hệ phiên mã và bộ chuyển hóa, kết hợp với công nghệ chỉnh sửa gen, phân tích một cách có hệ thống các cơ chế di truyền về tăng trưởng và phát triển cơ bắp, tích tụ mỡ, phân biệt và phát triển giới tính, chuyển hóa dinh dưỡng cơ thể và hình thành đặc điểm ngoại hình, và khai thác các gen chức năng hoặc các yếu tố phân tử ảnh hưởng đến các đặc điểm kinh tế quan trọng của gà thịt, mang lại sự đảm bảo cơ bản vững chắc cho việc ứng dụng công nghệ phân tử nhằm đẩy nhanh quá trình cải tiến giống gà thịt. Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ chọn lọc toàn bộ bộ gen trong chăn nuôi gà thịt.


(IV) Tăng cường thăm dò và sử dụng sáng tạo nguồn gen gà


Việc đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống các đặc điểm di truyền của các giống gà địa phương ở nước ta, khám phá các nguồn gen ưu việt như khả năng sinh sản, hiệu suất chuyển đổi thức ăn, chất lượng thịt, sức đề kháng và sử dụng các phương pháp công nghệ sinh học hiện đại để nuôi trồng các giống gà xuất sắc mới có ý nghĩa rất lớn. và vật liệu di truyền đáp ứng nhu cầu phát triển thị trường và công nghiệp với các giống gà địa phương có chất lượng thịt, hương vị thơm ngon, sức đề kháng làm nguyên liệu tốt, biến lợi thế về nguồn lực thành lợi thế về thị trường, thúc đẩy việc bảo vệ, phát triển và tận dụng nguồn gen gà nước ta và thúc đẩy sự phát triển độc lập của ngành chăn nuôi gà nước ta.




Vui lòng điền vào mẫu và gửi
Gửi thành công